Nhiếp niệm giữa buông lung
Tỉnh giác khi mê mờ
Như lương mã trong bầy
Bỏ ác thành Hiền thánh.
Nếu người biết tàm quí
Sẽ thành tựu trí tuệ
Dễ tiến tu đạo nghiệp
Như người thúc ngựa giỏi.
Điều phục ngựa thuần thục
Vua có thể sử dụng
Tự điều là Hiền nhân
Đáng nhận sự kính ngưỡng.
Đại ý :
Biết tàm quí, luôn nhiếp niệm điều phục những tâm hành buông lung, ác tập, tăng trưởng tuệ, thành tựu giá trị bậc Hiền thánh giữa nhân gian.
I. Không buông lung trong điều kiện buông lung
A. Ta có bao nhiêu điều kiện buông lung
1. Điều kiện nội tại
Sức mạnh vô đối của nghiệp lực là phần sâu sắc nhất
Tâm thức luôn thúc đẩy hướng ngoại; khoe mẽ bản ngã luôn tìm cách sống còn trong tâm thức người tu.
Tập nghiệp từ ngàn vạn kiếp (trong một giờ ngồi thiền, tâm ngược xuôi hết 59 phút).
Khuynh hướng của nghiệp sinh tử luôn thúc đẩy ta đến đối tượng bên ngoài.
2. Điều kiện ngoại tại
Hoàn cảnh sống, bạn bè, của cải
Văn hóa xã hội làm thành khát vọng chinh phục để thành đạt, cho đến khi gần trút hơi thở cuối cùng mới dừng lại.
Sức hút của vật dục do ta luôn muốn thủ đắc cái chưa có, như nước muối càng uống, càng khát.
Sự thúc đẩy của bản ngã : bản ngã có mặt nhờ sở hữu của ngã. Càng có nhiều sở hữu thì bản ngã càng to.
Ba yếu tố của ngoại tại khiến ta không thể dừng lại. Phải là người khéo tu tập, điều phục tâm mới dừng lại được ba điều trên.
3. Nhu cầu tự nhiện của đời sống
Từ ăn no, mặc ấm đến ăn sang, mặc đẹp nên tâm thức luôn xao động, bất an.
Tóm lại, ta có quá nhiều điều kiện để thả đời mình trong sinh tử.
B. Người trí có thể dừng khi xe đang lao dốc
1. Có trí tuệ hơn người
Nhìn xa, thấy tỏ tường đường đi và điểm đến (nỗi bất hạnh, khổ sầu, sự hủy diệt của đời sống do bị bằng hữu cuốn lôi).
2. Có bản lĩnh và tham vọng hơn người
Thấy trước những điều đưa mình đến sự hiểm nguy, nên biết dừng lại sự buông trôi.
Biết đầu tư đời mình cho những điều mình muốn thành đạt.
Tham vọng thành đạt sự nghiệp trí tuệ, biết trú trong tuệ vô lậu để thành tựu sự nghiệp Niết bàn.
3. Có quyết tâm thành tựu sự nghiệp lớn
Không cần có chùa to, Phật lớn với nhiều đệ tử xuất gia và Phật tử tại gia.
Có bản hoài thành tựu sự nghiệp giác ngộ.
4. Có nền tảng tâm thức thánh nhân
Có tuệ căn sâu dầy cùng với nghiệp lành trong quá khứ.
Có bản hoài thành tựu sự nghiệp giác ngộ.
II. Tỉnh thức và khéo điều phục
A. Tỉnh thức và tinh cần
Tập sống với năng lực tâm quan sát
Thực tập sống chánh niệm trong mọi sinh hoạt hàng ngày và rút ngắn dần khoảng cách giữa hai năng lực quan sát của tâm, để thời gian thực hành chánh niệm ngày một dài hơn, từ lúc thức đến khi ngủ.
Khi ngày và đêm, việc thực tập chánh niệm thành một vòng tròn viên mãn thì chỉ mới đạt được 50% việc duy trì sự tỉnh thức khi thân còn khỏe mạnh.
Khi thân kề cận cái chết (tứ đại phân ly) mà vẫn trú được trong tâm quan sát thì năng lực tĩnh thức và tinh cần mới viên mãn.
B. Người hiền lời được kính trọng
1. Người điều phục được tâm
“Năng điều vi nhơn hiền, Nãi thọ thành tín ngữ.”
Người hiền nên lời được muôn người kính trọng đi ngang qua thời gian (lời nói của họ được ghi vào ngữ lục và họ được kính trọng qua nhiều đời).
Bản thân người đó được kính trọng.
2. Ta có thể thực tập những loại ngôn ngữ sử dụng
Ngôn ngữ đường phố: thô lỗ, tục tằn, không có văn hóa, làm tổn
thương người.
Ngôn ngữ thông dụng (thường dùng) tùy cấp độ:
Ít học: vốn từ hạn chế.
Có học: nhẹ, thanh, không xúc phạm người.
Ngôn ngữ học thuật
Trình độ tri thức khá rộng.
Tham dự những mặt bằng thi ca, hội họa.
Kết hợp tri thức với thiện tâm để xây dựng gia đình hạnh phúc, điều khiển quốc gia.
Có tâm yêu thương, tàm quý.
Hội nhập vào đời sống nhưng không trộn lẫn vào đời sống thấp hơn.
Kính ngữ
Dành cho giai cấp cao quý nhất trong xã hội loài người.
Thời Thế Tôn tại tiền và đang ở trong một trú xứ thì có con quỷ La sát đến bảo: Cồ đàm đi ra.
Thế Tôn đáp: Thưa hiền giả, tôi đi ra.
La sát; Cồ đàm đi vô.
Thế Tôn đáp: Thưa hiền giả, tôi đi vô.
Sau ba lần hỏi đáp như trên.
La sát nói tiếp: Ta sẽ hỏi một câu, nếu Cồ đàm không trả lời được, ta sẽ nắm chân thảy ra ngoài.
Thế Tôn: Không ai có thể nắm chân Như Lai thảy ra ngoài.
Ghi nhớ: Khi ta sử dụng ngôn ngữ trân trọng, thương yêu thì người sẽ hoàn tác lại cho ta. Khi ta điều phục được lời nói thì ta sẽ điều phục được thân và tâm.
III. Kết
Người tu có trí lự (sự tính toán, cân nhắc nghiêm túc) có thể xây nền cho sự thành tựu vô đối của mình từ công trình tu tập.
Có chút tàm quí đã có thể trở thành người lương thiện trong đời sống bình thường. Có tàm quí nơi
tâm người tu dễ trở thành bậc Thầy trí tuệ và đạo hạnh.